Hội chứng mạch vành cấp là gì? Các công bố khoa học về Hội chứng mạch vành cấp

Hội chứng mạch vành cấp (hay còn được gọi là hội chứng mạch vành cấp vàng) là một tình trạng mạch vành cung cấp máu đến tim bị gián đoạn tạm thời, gây ra các tr...

Hội chứng mạch vành cấp (hay còn được gọi là hội chứng mạch vành cấp vàng) là một tình trạng mạch vành cung cấp máu đến tim bị gián đoạn tạm thời, gây ra các triệu chứng như đau ngực hoặc khó thở. Tình trạng này thường xảy ra khi có một vật cản tạm thời hoặc co thắt mạch vành cung cấp máu đến tim, đồng thời tiếp tục cung cấp máu đến các mô và cơ khác trong cơ thể.

Hội chứng mạch vành cấp thường xảy ra do bệnh động mạch vành, khi các mảng bám tích tụ trên bề mặt của thành mạch vành gây tắc nghẽn dòng máu. Khi một mảng bám tích tụ vỡ ra, tụ máu xảy ra tạo thành cục máu, gây tắc nghẽn hoặc giảm lưu lượng máu trong mạch vành. Điều này dẫn đến giảm cung cấp oxy và dưỡng chất cho tim, gây ra hội chứng mạch vành cấp.
Hội chứng mạch vành cấp xảy ra khi động mạch vành bị tắc nghẽn tạm thời do hình thành cục máu hoặc co thắt hay co cứng của động mạch. Động mạch vành là những mạch máu nhỏ nằm xung quanh bề mặt của tim và cung cấp máu, oxy và dưỡng chất cho cơ tim.

Nguyên nhân chính gây ra hội chứng mạch vành cấp là bệnh động mạch vành, cụ thể là sự tích tụ mảng bám (atherosclerosis) trên các thành mạch vành. Các mảng bám này thường là kết quả của sự tích tụ cholesterol, triglyceride, canxi và các chất khác trên bề mặt các mạch vành. Khi một mảng bám bị vỡ, các tạp chất trong đó tiếp tục tạo thành cục máu, gây ra tắc nghẽn hoặc giảm lưu lượng máu trong mạch vành.

Khi mạch vành bị tắc nghẽn, lưu lượng máu và oxygen cung cấp cho cơ tim bị giảm. Điều này gây ra những triệu chứng như đau ngực (angina) hoặc khó thở. Đau ngực thường xuất hiện như một ngọn lửa hay nặng nề trên ngực và có thể lan ra các vùng khác như cánh tay, vai, cổ, lưng, hàm hoặc dưới vùng bụng. Ngoài ra, hội chứng mạch vành cấp cũng có thể gây ra cảm giác ngột ngạt, mệt mỏi, buồn nôn, hoặc cảm giác không thoải mái tổng thể.

Hội chứng mạch vành cấp cần được chẩn đoán và điều trị kịp thời để ngăn ngừa những biến chứng nghiêm trọng như đau tim (angina không ổn định), nhồi máu cơ tim hoặc nhồi máu tim. Điều trị bao gồm việc sử dụng thuốc giảm đau và kháng vi khuẩn, thay đổi lối sống và ăn uống, thực hiện phẫu thuật hoặc tiếp cận mạch vành để giải quyết tắc nghẽn và phục hồi lưu thông máu đi đến cơ tim.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hội chứng mạch vành cấp":

Viêm và Xơ Vữa Động Mạch Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 105 Số 9 - Trang 1135-1143 - 2002

Xơ vữa động mạch, trước đây được coi là một bệnh lưu trữ lipid tẻ nhạt, thực sự liên quan đến một phản ứng viêm đang diễn ra. Những tiến bộ gần đây trong khoa học cơ bản đã thiết lập một vai trò nền tảng của quá trình viêm trong việc trung gian hóa tất cả các giai đoạn của bệnh này từ khởi đầu, phát triển và, cuối cùng, các biến chứng huyết khối của xơ vữa động mạch. Những phát hiện mới này cung cấp các liên kết quan trọng giữa các yếu tố nguy cơ và các cơ chế của bệnh động mạch vành. Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng sinh học mới nổi này của viêm trong xơ vữa động mạch áp dụng trực tiếp cho bệnh nhân con người. Sự tăng cao trong các dấu hiệu viêm dự đoán kết quả của bệnh nhân với hội chứng mạch vành cấp, không phụ thuộc vào tổn thương cơ tim. Ngoài ra, viêm mạn tính mức độ thấp, như được chỉ định bởi mức độ của dấu hiệu viêm protein phản ứng C, định rõ rủi ro của các biến chứng xơ vữa động mạch theo dự đoán, do đó bổ sung thông tin tiên lượng do các yếu tố nguy cơ truyền thống cung cấp. Hơn nữa, một số phương pháp điều trị nhất định giảm rủi ro động mạch vành cũng hạn chế viêm. Trong trường hợp hạ lipid với statin, hiệu ứng chống viêm này dường như không tương quan với việc giảm mức độ lipoprotein mật độ thấp. Những hiểu biết mới này về viêm trong xơ vữa động mạch không chỉ làm tăng sự hiểu biết của chúng ta về bệnh này, mà còn có ứng dụng lâm sàng thực tiễn trong việc phân tầng nguy cơ và mục tiêu hóa liệu pháp cho nạn dịch này đang gia tăng tầm quan trọng toàn cầu.

#viêm #xơ vữa động mạch #phản ứng viêm #hội chứng mạch vành cấp #protein phản ứng C #statin
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP CÓ ST CHÊNH LÊN NHẬP VIỆN MUỘN
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 49 Số 3 - Trang 177-186 - 2024
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân (BN) nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp có ST chênh lên nhập viện muộn. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả, cắt ngang, có đối chứng trên 44 BN NMCT cấp có ST chênh lên nhập viện muộn được chẩn đoán xác định và can thiệp động mạch vành (ĐMV) qua da tại Bệnh viện Quân y 103 và Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2019 - 7/2020. Kết quả: Tuổi trung bình 64,6 ± 12,6, tỷ lệ nam giới 79,5%, BN được vận chuyển bằng xe cứu thương 40,9%. Các yếu tố nguy cơ của NMCT như hút thuốc (68,2%), tăng huyết áp (36,4%). Triệu chứng đau ngực 100%; trong đó, 25,0% đau ngực không điển hình. Tổn thương thường gặp trên điện tâm đồ là NMCT thành trước 52,3% và sau dưới 43,2%. Tỷ lệ BN được vận chuyển bằng xe cứu thương thấp hơn so với nhóm nhập viện sớm (40,9%, 95,7%, p < 0,05). BN đau thắt ngực không điển hình nhiều hơn (25,0%; 2,1% p < 0,05); nồng độ Troponins và NT-proBNP cao hơn (p < 0,05). Kết luận: Các BN đều có yếu tố nguy cơ, đặc biệt là hút thuốc, tăng huyết áp; 40,9% BN được vận chuyển bằng xe cứu thương. Tất cả BN khởi phát có đau ngực, trong đó, 25,0% đau ngực không điển hình, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hình thức vận chuyển, đau thắt ngực không điển hình, nồng độ Troponins và NT-proBNP cao hơn.
#NMCT cấp có ST chênh lên #Nhồi máu cơ tim nhập viện muộn #Hội chứng mạch vành cấp
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN LIPID MÁU TRÊN BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN DO HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị rối loạn lipid máu (RLLM) trên bệnh nhân (BN) nhập viện do hội chứng mạch vành cấp (HCMVC) và xác định mối liên quan của các yếu tố ảnh hưởng đến số ngày nằm viện, kết cục tại khoa Nội tim mạch lão học, bệnh viện Bà Rịa. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu trên hồ sơ bệnh án của BN điều trị nội trú tại khoa Nội tim mạch lão học, nhập viện được chẩn đoán xác định HCMVC từ 01/08/2020 – 31/07/2021. Kết quả: BN được kê statin cường độ cao lúc nhập viện và khi xuất viện lần lượt là 62,5% và 64,5%. Thể UA và NSTEMI được kê atorvastatin nhiều trong khi STEMI được kê rosuvastatin nhiều khi nhập viện, khi xuất viện thì atorvastatin chiếm chủ yếu ở cả 3 thể. BN có tiền sử sử dụng statin có khả năng giảm thời gian nằm viện, trong khi đó mức lọc cầu thận thấp và thể nhồi máu cơ tim có/không có ST chênh lên có khả năng kéo dài thời gian nằm viện. Việc dùng statin lúc nhập viện làm giảm 8 lần tỷ suất xảy ra kết cục (tử vong, đột quỵ, được yêu cầu chuyển viện, cơn nhồi máu cơ tim mới, suy tim) ở BN. Kết luận: Cần xem xét việc kê statin cường độ cao cho BN có chẩn đoán HCMVC, kéo dài sau khi đã xuất viện. Cần thực hiện thêm các thiết kế nghiên cứu có mức độ cao hơn như nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu để xác định chính xác hơn các yếu tố ảnh hưởng đến số ngày nằm viện, kết cục.
#Statin #tỷ lệ sử dụng thuốc #yếu tố ảnh hưởng #hội chứng mạch vành cấp
XÁC ĐỊNH CÁC RÀO CẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC KÊ ĐƠN THEO HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ TRÊN BỆNH NHÂN NỘI TRÚ MẮC HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định các rào cản trong việc tuân thủ các khuyến cáo của các HDĐT đối với kê đơn điều trị nội trú bệnh nhân HCMVC tại Bệnh viện Hữu Nghị. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là các bác sĩ tại các Khoa tham gia vào điều trị HCMVC tại Bệnh viện Hữu nghị, sử dụng phương pháp định tính, hình thức phỏng vấn sâu thông qua bộ câu hỏi bán cấu trúc. Kết quả: Tổng cộng 11 bác sĩ tham giap hỏng vấn (54,5% bác sĩ trên 10 năm kinh nghiệm, 63,6% bác sĩ nam). Hai nhóm rào cản được xác định: rào cản nội tại liên quan bác sĩ điều trị (bao gồm kiến thức, kinh nghiệm, thói quen kê đơn, đồng thuận với hướng dẫn); rào cản bên ngoài (bao gồm hướng dẫn điều trị, cung ứng thuốc, thanh toán bảo hiểm, bệnh nhân). Những rào cản này liên quan đến kê đơn chưa tối ưu các nhóm thuốc kháng kết tập tiểu cầu, thuốc chống đông, thuốc chẹn beta giao cảm và statin. Kết luận: Nghiên cứu đã xác định được các rào cản quan trọng dẫn đến kê đơn chưa tối ưu các nhóm thuốc theo HDĐT trong quản lý nội trú HCMVC tại bệnh viện Hữu Nghị. Đây là các căn cứ quan trọng để có các giải pháp thực tiễn giúp nâng cao chất lượng sử dụng thuốc tại bệnh viện.
#Hội chứng mạch vành cấp #rào cản kê đơn #phân tích định tính #tuân thủ Hướng dẫn
LIÊN QUAN GIỮA DẤU HIỆU T ÂM Ở CHUYỂN ĐẠO AVL TRÊN ĐIỆN TÂM ĐỒ VỚI TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH LIÊN THẤT TRƯỚC Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG VÀNH CẤP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Điện tâm đồ là một công cụ đơn giản, có vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định, chẩn đoán định khu, cũng như tiên lượng và theo dõi điều trị bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp. Giá trị của dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trong dự đoán tổn thương đoạn giữa động mạch liên thất trước ở bệnh nhân hội chứng vành cấp vẫn chưa được nhấn mạnh hoặc chưa được công nhận. Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trên điện tâm đồ với tổn thương đoạn giữa động mạch liên thất trướ cở bệnh nhân hội chứng vành cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 401người bệnhHội chứng vành cấplần đầu (bao gồm214 bệnh nhân NMCT có ST chênh lên và 187 bệnh nhân NMCT không có ST chênh lên), được chụp ĐMV qua da tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021. Kết cục chính là tổn thương hẹp MLAD ≥ 70% và MLAD là ĐMV thủ phạm. Kết quả nghiên cứu: Ở nhóm NMCT cấp có ST chênh lên dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL là biến duy nhất dự đoán có ý nghĩa tổn thương MLAD (OR = 2,17, CI 95% = 1,17-3,97, p<0,05). Dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương/ thủ phạm là đoạn giữa động mạch liên thất trước với độ nhậy, giá trị dự báo dương tính lần lượt là 64,5% , 71,1% và 78,7%, 50,4%; tuy nhiên độ đặc hiệu thấp 54,2% và 49,2%. Dấu hiệu T âm đơn độc ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương MLAD với độ đặc hiệu cao là 96,6%. Ở phân nhóm NMCT thành trước dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương/ thủ phạm là đoạn giữa động mạch liên thất trước với độ nhậy, giá trị dự báo dương tính lần lượt là70,2%; 71,1% và 78,5%; 68,8%. Ở phân nhóm NMCT thành sau không rõ mối liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL với tổn thương MLAD. Kết luận: Ở bệnh nhân NMCT có ST chênh lên, dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trên điện tâm đồ có liên quan  và có giá trị dự báo vị trí tổn thương hoặc thủ phạm là MLAD. Ở nhóm NMCT không ST chênh chưa thấy liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL với vị trí tổn thương hoặc thủ phạm là MLAD.
#Hội chứng mạch vành cấp #Điện tâm đồ #Sóng T âm #Đoạn giữa động mạch liên thất trước
Điều chỉnh điểm GRACE bằng HemoglobinA1c cho phép dự đoán chính xác hơn về các sự kiện tim mạch bất lợi lớn lâu dài ở hội chứng vành cấp mà không có tiểu đường khi thực hiện can thiệp mạch vành qua da Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 14 - Trang 1-8 - 2015
Điểm nguy cơ của Đăng ký Toàn cầu về các Sự kiện Tim mạch Cấp tính (GRACE) được khuyến nghị rộng rãi để đánh giá nguy cơ ở bệnh nhân có hội chứng vành cấp (ACS). Tăng glucose huyết mãn tính [hemoglobinA1c (HbA1c)] có khả năng tiên đoán độc lập các sự kiện tim mạch bất lợi lớn (MACEs) ở bệnh nhân ACS. Chúng tôi đã điều tra liệu việc dự đoán MACEs với điểm GRACE có thể được cải thiện với sự bổ sung độ HbA1c trong bệnh nhân ACS không có tiểu đường (DM) đang thực hiện can thiệp mạch vành qua da (PCI). Chúng tôi đã enroll 549 bệnh nhân ACS không có DM đã thực hiện PCI. Điểm GRACE và độ HbA1c đã được xác định khi nhập viện. Mối tương quan được phân tích bằng cách sử dụng mối tương quan xếp hạng Spearman. Đường cong tích lũy MACE được tính toán bằng phương pháp Kaplan-Meier. Hồi quy Cox đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố tiên đoán của MACEs. Thêm vào đó, giá trị dự đoán của độ HbA1c một mình và kết hợp với điểm GRACE được ước lượng bằng diện tích dưới đường cong đặc trưng cho bộ phân loại (AUC), cải tiến phân loại ròng liên tục (NRI) và cải tiến phân biệt tích hợp (IDI). Trong suốt thời gian theo dõi trung bình 42.3 tháng (khoảng tứ phân 39.3–44.2 tháng), 16 (2.9%) bệnh nhân bị mất dấu và bệnh nhân đã trải qua 69 (12.9%) MACEs: 51 (9.6%) tử vong do mọi nguyên nhân và 18 (3.4%) trường hợp nhồi máu cơ tim không tử vong. Điểm GRACE có mối liên hệ tích cực với độ HbA1c. Phân tích Cox đa biến cho thấy cả điểm GRACE và độ HbA1c đều là các yếu tố tiên đoán độc lập của MACEs (tỷ lệ nguy cơ 1.030; 95% CI 1.020–1.040; p < 0.001; 3.530; 95% CI 1.927–6.466; p < 0.001, tương ứng). Hơn nữa, phân tích Kaplan-Meier cho thấy nguy cơ MACEs tăng lên với độ HbA1c tăng (log-rank 33.906, p < 0.001). Điều chỉnh ước lượng nguy cơ GRACE bằng độ HbA1c cải thiện giá trị dự đoán của điểm GRACE [tăng AUC từ 0.75 cho điểm GRACE lên 0.80 cho điểm GRACE cộng HbA1c, p = 0.012; IDI = 0.055, p < 0.001; NRI (>0) = 0.70, p < 0.001]. Nội dung HbA1c có sự liên quan tích cực với điểm nguy cơ GRACE và sự kết hợp của chúng đã cải thiện thêm phân loại nguy cơ cho bệnh nhân ACS không có DM đang thực hiện PCI.
#Hội chứng vành cấp #điểm GRACE #hàm lượng HbA1c #can thiệp mạch vành qua da #sự kiện tim mạch bất lợi lớn
Đánh giá thực trạng kê đơn trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp quản lý ngoại trú tại Bệnh viện tim Hà Nội
Mục tiêu: phân tích thực trạng sử dụng các nhóm thuốc được khuyến cáo trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp (HCMVC), quản lý ngoại trú tại bệnh viện Tim Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên bệnh nhân điều trị ngoại trú, ngay sau giai đoạn điều trị nội trú trong thời gian từ 01/01/2021 tới 31/3/2021  tại bệnh viện Tim Hà Nội. Kết quả: Nghiên cứu ghi nhận 154 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ. Tại thời điểm xuất viện, tỷ lệ bệnh nhân phối hợp 4 thuốc được khuyến cáo là 63,0%. Sau 12 tháng, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng statin mạnh giảm từ 87,7% xuống 42,2%. Bệnh nhân HCMCV kèm EF ≤ 40% có tỷ lệ kê đơn ức chế men chuyển/chẹn thụ thể angiotensin II và chẹn beta cao hơn. Kết luận: Trong 1 năm sau HCMVC, đa số bệnh nhân được kê đơn các thuốc theo khuyến cáo. Tỷ lệ kê đơn statin mạnh cần cải thiện để dự phòng biến cố tim mạch trên bệnh nhân.
#hội chứng mạch vành cấp #ngoại trú
Giảm tăng cường cơ tim trong một trường hợp hội chứng vành cấp với các động mạch vành bình thường: minh họa bằng máy chụp cắt lớp vi tính đa lát cắt 64 Dịch bởi AI
Radiation Medicine - Tập 28 - Trang 763-766 - 2010
Một người đàn ông 48 tuổi đã đến khám với cơn đau ngực dữ dội bắt đầu 2 giờ trước và có sự nâng ST trên điện tâm đồ. Chụp cắt lớp vi tính tim mạch (CT) đã được thực hiện bằng máy quét đa detec-tor 64 lát cắt (MDCT) để đánh giá hẹp động mạch vành sau 3 giờ kể từ khi khởi phát. Chụp mạch vành CT cho thấy không có hẹp đáng kể ở các động mạch vành, nhưng hình ảnh cơ tim CT ở thì tâm thu cho thấy chủ yếu là giảm tăng cường nội tâm mạc ở vách trước. Chụp CT tim kết hợp chụp mạch vành và hình ảnh cơ tim đã cho thấy giảm tăng cường cơ tim trong một trường hợp hội chứng vành cấp với các động mạch vành bình thường, có thể liên quan đến rối loạn vi mạch do cơn đau thắt ngực co thắt hoặc đau thắt ngực vi mạch.
#hội chứng vành cấp #giảm tăng cường cơ tim #chụp cắt lớp vi tính #động mạch vành bình thường
Biểu hiện tự phát ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim ST đoạn chênh tạm thời—Tỷ lệ, tầm quan trọng và phương pháp quản lý Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 37 - Trang 169-180 - 2021
Bệnh nhân mắc nhồi máu cơ tim ST đoạn chênh tạm thời (STEMI) hoặc tự phát hồi phục (SpR) của đoạn ST trên điện tâm đồ có thể đại diện cho một nhóm bệnh nhân đặc biệt, gây ra những khó khăn trong quản lý điều trị. Trong bài tổng quan này, chúng tôi thảo luận về các cơ chế tiềm năng liên quan đến SpR, mối quan hệ của nó với các kết quả lâm sàng và các tùy chọn quản lý đề xuất cho bệnh nhân mắc STEMI tạm thời, chú trọng vào can thiệp động mạch vành qua da ngay lập tức so với sớm. Chúng tôi đã thực hiện một tìm kiếm tài liệu có cấu trúc từ cơ sở dữ liệu PubMed và Thư viện Cochrane từ khi thành lập đến tháng 12 năm 2020. Các nghiên cứu tập trung vào SpR ở bệnh nhân mắc hội chứng động mạch vành cấp tính đã được chọn. Dữ liệu hiện có cho thấy việc hoãn chụp động mạch và phục hồi trong vòng 24–48 giờ ở những bệnh nhân này là hợp lý và liên quan đến kết quả tương tự hoặc có thể tốt hơn so với chụp động mạch ngay lập tức. Cần có thêm các thử nghiệm ngẫu nhiên để làm sáng tỏ các chiến lược dược lý và xâm lấn tốt nhất cho nhóm bệnh nhân này.
#nhồi máu cơ tim ST đoạn chênh tạm thời #hồi phục tự phát #can thiệp động mạch vành qua da #hội chứng động mạch vành cấp tính
Can thiệp sớm: Ai là bệnh nhân và can thiệp sớm đến mức nào? Dịch bởi AI
Current Cardiology Reports - Tập 10 - Trang 303-311 - 2008
Bất chấp các tiến bộ trong điều trị dự phòng, hội chứng mạch vành cấp tính (ACS) vẫn là một nguyên nhân đáng kể gây ra tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Mức độ nguy cơ của bệnh nhân thay đổi rất lớn, trải dài từ cơn đau thắt ngực không ổn định đến nhồi máu cơ tim nâng ST (STEMI) và có thể được ước lượng bằng các thuật toán dự đoán nguy cơ. Nguy cơ ước lượng rất hữu ích trong việc lựa chọn các phương pháp điều trị, từ liệu pháp y tế tích cực cho các bệnh nhân có nguy cơ thấp đến tái thông mạch cho bệnh nhân có nguy cơ cao, trong đó phẫu thuật bắc cầu hoặc can thiệp mạch vành qua da (PCI) là khả thi. Thời điểm thực hiện chiến lược xâm lấn là điều rất quan trọng, với can thiệp sớm mang lại lợi ích tối đa cho những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất. Vai trò của PCI hỗ trợ ở những bệnh nhân trình diện với STEMI và thời điểm thích hợp nhất để điều trị can thiệp ở những bệnh nhân có nguy cơ vừa phải sau một ACS không nâng ST vẫn là chủ đề của những cuộc tranh luận đang diễn ra.
#hội chứng mạch vành cấp tính #ước lượng nguy cơ #can thiệp mạch vành qua da #nhồi máu cơ tim #can thiệp sớm
Tổng số: 20   
  • 1
  • 2