Hội chứng mạch vành cấp là gì? Các công bố khoa học về Hội chứng mạch vành cấp

Hội chứng mạch vành cấp (hay còn được gọi là hội chứng mạch vành cấp vàng) là một tình trạng mạch vành cung cấp máu đến tim bị gián đoạn tạm thời, gây ra các tr...

Hội chứng mạch vành cấp (hay còn được gọi là hội chứng mạch vành cấp vàng) là một tình trạng mạch vành cung cấp máu đến tim bị gián đoạn tạm thời, gây ra các triệu chứng như đau ngực hoặc khó thở. Tình trạng này thường xảy ra khi có một vật cản tạm thời hoặc co thắt mạch vành cung cấp máu đến tim, đồng thời tiếp tục cung cấp máu đến các mô và cơ khác trong cơ thể.

Hội chứng mạch vành cấp thường xảy ra do bệnh động mạch vành, khi các mảng bám tích tụ trên bề mặt của thành mạch vành gây tắc nghẽn dòng máu. Khi một mảng bám tích tụ vỡ ra, tụ máu xảy ra tạo thành cục máu, gây tắc nghẽn hoặc giảm lưu lượng máu trong mạch vành. Điều này dẫn đến giảm cung cấp oxy và dưỡng chất cho tim, gây ra hội chứng mạch vành cấp.
Hội chứng mạch vành cấp xảy ra khi động mạch vành bị tắc nghẽn tạm thời do hình thành cục máu hoặc co thắt hay co cứng của động mạch. Động mạch vành là những mạch máu nhỏ nằm xung quanh bề mặt của tim và cung cấp máu, oxy và dưỡng chất cho cơ tim.

Nguyên nhân chính gây ra hội chứng mạch vành cấp là bệnh động mạch vành, cụ thể là sự tích tụ mảng bám (atherosclerosis) trên các thành mạch vành. Các mảng bám này thường là kết quả của sự tích tụ cholesterol, triglyceride, canxi và các chất khác trên bề mặt các mạch vành. Khi một mảng bám bị vỡ, các tạp chất trong đó tiếp tục tạo thành cục máu, gây ra tắc nghẽn hoặc giảm lưu lượng máu trong mạch vành.

Khi mạch vành bị tắc nghẽn, lưu lượng máu và oxygen cung cấp cho cơ tim bị giảm. Điều này gây ra những triệu chứng như đau ngực (angina) hoặc khó thở. Đau ngực thường xuất hiện như một ngọn lửa hay nặng nề trên ngực và có thể lan ra các vùng khác như cánh tay, vai, cổ, lưng, hàm hoặc dưới vùng bụng. Ngoài ra, hội chứng mạch vành cấp cũng có thể gây ra cảm giác ngột ngạt, mệt mỏi, buồn nôn, hoặc cảm giác không thoải mái tổng thể.

Hội chứng mạch vành cấp cần được chẩn đoán và điều trị kịp thời để ngăn ngừa những biến chứng nghiêm trọng như đau tim (angina không ổn định), nhồi máu cơ tim hoặc nhồi máu tim. Điều trị bao gồm việc sử dụng thuốc giảm đau và kháng vi khuẩn, thay đổi lối sống và ăn uống, thực hiện phẫu thuật hoặc tiếp cận mạch vành để giải quyết tắc nghẽn và phục hồi lưu thông máu đi đến cơ tim.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hội chứng mạch vành cấp":

Viêm và Xơ Vữa Động Mạch Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 105 Số 9 - Trang 1135-1143 - 2002

Xơ vữa động mạch, trước đây được coi là một bệnh lưu trữ lipid tẻ nhạt, thực sự liên quan đến một phản ứng viêm đang diễn ra. Những tiến bộ gần đây trong khoa học cơ bản đã thiết lập một vai trò nền tảng của quá trình viêm trong việc trung gian hóa tất cả các giai đoạn của bệnh này từ khởi đầu, phát triển và, cuối cùng, các biến chứng huyết khối của xơ vữa động mạch. Những phát hiện mới này cung cấp các liên kết quan trọng giữa các yếu tố nguy cơ và các cơ chế của bệnh động mạch vành. Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng sinh học mới nổi này của viêm trong xơ vữa động mạch áp dụng trực tiếp cho bệnh nhân con người. Sự tăng cao trong các dấu hiệu viêm dự đoán kết quả của bệnh nhân với hội chứng mạch vành cấp, không phụ thuộc vào tổn thương cơ tim. Ngoài ra, viêm mạn tính mức độ thấp, như được chỉ định bởi mức độ của dấu hiệu viêm protein phản ứng C, định rõ rủi ro của các biến chứng xơ vữa động mạch theo dự đoán, do đó bổ sung thông tin tiên lượng do các yếu tố nguy cơ truyền thống cung cấp. Hơn nữa, một số phương pháp điều trị nhất định giảm rủi ro động mạch vành cũng hạn chế viêm. Trong trường hợp hạ lipid với statin, hiệu ứng chống viêm này dường như không tương quan với việc giảm mức độ lipoprotein mật độ thấp. Những hiểu biết mới này về viêm trong xơ vữa động mạch không chỉ làm tăng sự hiểu biết của chúng ta về bệnh này, mà còn có ứng dụng lâm sàng thực tiễn trong việc phân tầng nguy cơ và mục tiêu hóa liệu pháp cho nạn dịch này đang gia tăng tầm quan trọng toàn cầu.

#viêm #xơ vữa động mạch #phản ứng viêm #hội chứng mạch vành cấp #protein phản ứng C #statin
LIÊN QUAN GIỮA DẤU HIỆU T ÂM Ở CHUYỂN ĐẠO AVL TRÊN ĐIỆN TÂM ĐỒ VỚI TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH LIÊN THẤT TRƯỚC Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG VÀNH CẤP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Điện tâm đồ là một công cụ đơn giản, có vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định, chẩn đoán định khu, cũng như tiên lượng và theo dõi điều trị bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp. Giá trị của dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trong dự đoán tổn thương đoạn giữa động mạch liên thất trước ở bệnh nhân hội chứng vành cấp vẫn chưa được nhấn mạnh hoặc chưa được công nhận. Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trên điện tâm đồ với tổn thương đoạn giữa động mạch liên thất trướ cở bệnh nhân hội chứng vành cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 401người bệnhHội chứng vành cấplần đầu (bao gồm214 bệnh nhân NMCT có ST chênh lên và 187 bệnh nhân NMCT không có ST chênh lên), được chụp ĐMV qua da tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021. Kết cục chính là tổn thương hẹp MLAD ≥ 70% và MLAD là ĐMV thủ phạm. Kết quả nghiên cứu: Ở nhóm NMCT cấp có ST chênh lên dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL là biến duy nhất dự đoán có ý nghĩa tổn thương MLAD (OR = 2,17, CI 95% = 1,17-3,97, p<0,05). Dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương/ thủ phạm là đoạn giữa động mạch liên thất trước với độ nhậy, giá trị dự báo dương tính lần lượt là 64,5% , 71,1% và 78,7%, 50,4%; tuy nhiên độ đặc hiệu thấp 54,2% và 49,2%. Dấu hiệu T âm đơn độc ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương MLAD với độ đặc hiệu cao là 96,6%. Ở phân nhóm NMCT thành trước dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương/ thủ phạm là đoạn giữa động mạch liên thất trước với độ nhậy, giá trị dự báo dương tính lần lượt là70,2%; 71,1% và 78,5%; 68,8%. Ở phân nhóm NMCT thành sau không rõ mối liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL với tổn thương MLAD. Kết luận: Ở bệnh nhân NMCT có ST chênh lên, dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trên điện tâm đồ có liên quan  và có giá trị dự báo vị trí tổn thương hoặc thủ phạm là MLAD. Ở nhóm NMCT không ST chênh chưa thấy liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL với vị trí tổn thương hoặc thủ phạm là MLAD.
#Hội chứng mạch vành cấp #Điện tâm đồ #Sóng T âm #Đoạn giữa động mạch liên thất trước
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN LIPID MÁU TRÊN BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN DO HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị rối loạn lipid máu (RLLM) trên bệnh nhân (BN) nhập viện do hội chứng mạch vành cấp (HCMVC) và xác định mối liên quan của các yếu tố ảnh hưởng đến số ngày nằm viện, kết cục tại khoa Nội tim mạch lão học, bệnh viện Bà Rịa. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu trên hồ sơ bệnh án của BN điều trị nội trú tại khoa Nội tim mạch lão học, nhập viện được chẩn đoán xác định HCMVC từ 01/08/2020 – 31/07/2021. Kết quả: BN được kê statin cường độ cao lúc nhập viện và khi xuất viện lần lượt là 62,5% và 64,5%. Thể UA và NSTEMI được kê atorvastatin nhiều trong khi STEMI được kê rosuvastatin nhiều khi nhập viện, khi xuất viện thì atorvastatin chiếm chủ yếu ở cả 3 thể. BN có tiền sử sử dụng statin có khả năng giảm thời gian nằm viện, trong khi đó mức lọc cầu thận thấp và thể nhồi máu cơ tim có/không có ST chênh lên có khả năng kéo dài thời gian nằm viện. Việc dùng statin lúc nhập viện làm giảm 8 lần tỷ suất xảy ra kết cục (tử vong, đột quỵ, được yêu cầu chuyển viện, cơn nhồi máu cơ tim mới, suy tim) ở BN. Kết luận: Cần xem xét việc kê statin cường độ cao cho BN có chẩn đoán HCMVC, kéo dài sau khi đã xuất viện. Cần thực hiện thêm các thiết kế nghiên cứu có mức độ cao hơn như nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu để xác định chính xác hơn các yếu tố ảnh hưởng đến số ngày nằm viện, kết cục.
#Statin #tỷ lệ sử dụng thuốc #yếu tố ảnh hưởng #hội chứng mạch vành cấp
XÁC ĐỊNH CÁC RÀO CẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC KÊ ĐƠN THEO HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ TRÊN BỆNH NHÂN NỘI TRÚ MẮC HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định các rào cản trong việc tuân thủ các khuyến cáo của các HDĐT đối với kê đơn điều trị nội trú bệnh nhân HCMVC tại Bệnh viện Hữu Nghị. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là các bác sĩ tại các Khoa tham gia vào điều trị HCMVC tại Bệnh viện Hữu nghị, sử dụng phương pháp định tính, hình thức phỏng vấn sâu thông qua bộ câu hỏi bán cấu trúc. Kết quả: Tổng cộng 11 bác sĩ tham giap hỏng vấn (54,5% bác sĩ trên 10 năm kinh nghiệm, 63,6% bác sĩ nam). Hai nhóm rào cản được xác định: rào cản nội tại liên quan bác sĩ điều trị (bao gồm kiến thức, kinh nghiệm, thói quen kê đơn, đồng thuận với hướng dẫn); rào cản bên ngoài (bao gồm hướng dẫn điều trị, cung ứng thuốc, thanh toán bảo hiểm, bệnh nhân). Những rào cản này liên quan đến kê đơn chưa tối ưu các nhóm thuốc kháng kết tập tiểu cầu, thuốc chống đông, thuốc chẹn beta giao cảm và statin. Kết luận: Nghiên cứu đã xác định được các rào cản quan trọng dẫn đến kê đơn chưa tối ưu các nhóm thuốc theo HDĐT trong quản lý nội trú HCMVC tại bệnh viện Hữu Nghị. Đây là các căn cứ quan trọng để có các giải pháp thực tiễn giúp nâng cao chất lượng sử dụng thuốc tại bệnh viện.
#Hội chứng mạch vành cấp #rào cản kê đơn #phân tích định tính #tuân thủ Hướng dẫn
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP CÓ ST CHÊNH LÊN NHẬP VIỆN MUỘN
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 49 Số 3 - Trang 177-186 - 2024
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân (BN) nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp có ST chênh lên nhập viện muộn. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả, cắt ngang, có đối chứng trên 44 BN NMCT cấp có ST chênh lên nhập viện muộn được chẩn đoán xác định và can thiệp động mạch vành (ĐMV) qua da tại Bệnh viện Quân y 103 và Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2019 - 7/2020. Kết quả: Tuổi trung bình 64,6 ± 12,6, tỷ lệ nam giới 79,5%, BN được vận chuyển bằng xe cứu thương 40,9%. Các yếu tố nguy cơ của NMCT như hút thuốc (68,2%), tăng huyết áp (36,4%). Triệu chứng đau ngực 100%; trong đó, 25,0% đau ngực không điển hình. Tổn thương thường gặp trên điện tâm đồ là NMCT thành trước 52,3% và sau dưới 43,2%. Tỷ lệ BN được vận chuyển bằng xe cứu thương thấp hơn so với nhóm nhập viện sớm (40,9%, 95,7%, p < 0,05). BN đau thắt ngực không điển hình nhiều hơn (25,0%; 2,1% p < 0,05); nồng độ Troponins và NT-proBNP cao hơn (p < 0,05). Kết luận: Các BN đều có yếu tố nguy cơ, đặc biệt là hút thuốc, tăng huyết áp; 40,9% BN được vận chuyển bằng xe cứu thương. Tất cả BN khởi phát có đau ngực, trong đó, 25,0% đau ngực không điển hình, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hình thức vận chuyển, đau thắt ngực không điển hình, nồng độ Troponins và NT-proBNP cao hơn.
#NMCT cấp có ST chênh lên #Nhồi máu cơ tim nhập viện muộn #Hội chứng mạch vành cấp
Những niềm tin về nguyên nhân, sự phủ nhận tác động của tim và độ trễ trước bệnh viện sau khi khởi phát hội chứng mạch vành cấp tính Dịch bởi AI
Journal of Behavioral Medicine - Tập 31 - Trang 498-505 - 2008
Giảm thiểu độ trễ trước bệnh viện là rất quan trọng trong việc giảm tỷ lệ tử vong do hội chứng mạch vành cấp tính (ACS). Niềm tin của bệnh nhân về nguyên nhân và cách đối phó của họ có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá triệu chứng và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ. Chúng tôi đã kiểm tra xem niềm tin của bệnh nhân về nguyên nhân của ACS và sự phủ nhận tác động có liên quan đến độ trễ trước bệnh viện hay không. Dữ liệu về độ trễ trước bệnh viện đã được thu thập từ 177 bệnh nhân mắc ACS. Các niềm tin về nguyên nhân và sự phủ nhận tác động của tim đã được đánh giá bằng cách sử dụng bảng câu hỏi. Phân tích yếu tố của niềm tin về nguyên nhân đã tạo ra 3 yếu tố; niềm tin vào căng thẳng và trạng thái cảm xúc, các yếu tố nguy cơ hành vi và lâm sàng, và di truyền như những ảnh hưởng nguyên nhân. Những bệnh nhân có niềm tin mạnh mẽ rằng căng thẳng và trạng thái cảm xúc gây ra ACS của họ có khả năng cao hơn để có độ trễ trước bệnh viện lâu (>130 phút). Không có sự liên kết đáng kể giữa độ trễ trước bệnh viện và hai yếu tố niềm tin nguyên nhân còn lại. Những bệnh nhân có điểm phủ nhận cao hơn cũng có khả năng dài hạn hơn so với những bệnh nhân có điểm thấp. Những tác động này là độc lập với độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tiền sử nhồi máu cơ tim, lịch sử trầm cảm và cảm xúc tiêu cực. Các yếu tố nhận thức và cảm xúc, bao gồm niềm tin của bệnh nhân về các nguyên nhân và cách đối phó tránh né, giúp giải thích sự biến thiên trong độ trễ trước bệnh viện.
#hội chứng mạch vành cấp tính #niềm tin về nguyên nhân #độ trễ trước bệnh viện #cảm xúc #hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ
Cập nhật trong Quản lý Bệnh Nhân Hội Chứng Tim Tâm Phế cấp Tính Dịch bởi AI
Current Cardiology Reports - Tập 21 - Trang 1-10 - 2019
Chúng tôi cung cấp một bản cập nhật ngắn gọn về quản lý hiện tại của hội chứng tim tâm phế cấp trong bối cảnh hội chứng vành cấp tính (ACS). Nhận diện kịp thời hội chứng sốc, lựa chọn và khởi động tối ưu hỗ trợ tuần hoàn cơ học (MCS), tái tưới máu vành sớm, và tiếp cận dựa trên nhóm, theo quy trình là những trụ cột hiện tại trong quản lý. Hội chứng tim tâm phế cấp làm phức tạp khoảng 5–10% các trường hợp ACS và tiếp tục có tỷ lệ tử vong cao. Việc sử dụng sớm hỗ trợ tuần hoàn cơ học có thể ngăn ngừa vòng xoáy tiêu cực của sốc và đã tăng đáng kể theo thời gian, chủ yếu được hỗ trợ bởi dữ liệu từ các cuộc đăng ký. Trong thử nghiệm CULPRIT-SHOCK, việc tái tưới máu chỉ tại các mạch bệnh lý đã liên quan đến tỷ lệ tử vong hoặc suy thận nặng do bất kỳ nguyên nhân nào thấp hơn trong 30 ngày, so với can thiệp mạch vành đa mạch ngay lập tức. Vì vậy, việc tái tưới máu định kỳ các tổn thương mạch không liên quan đến nhồi máu trong quá trình can thiệp mạch vành cho hội chứng tim tâm phế cấp là không được khuyến cáo. Việc sử dụng thường xuyên bơm bóng trong động mạch chủ (IABP) không liên quan đến việc cải thiện kết quả trong thử nghiệm IABP-SHOCK II. Một tiếp cận dựa trên nhóm và theo quy trình có thể cải thiện thêm kết quả. Những tiến bộ gần đây trong tái tưới máu vành và sử dụng MCS, thực hiện các đội sốc và các quy trình tiêu chuẩn hóa có thể cải thiện kết quả của hội chứng tim tâm phế cấp ở bệnh nhân ACS.
#hội chứng tim tâm phế #quản lý hội chứng vành cấp tính #hỗ trợ tuần hoàn cơ học #tái tưới máu vành #tỷ lệ tử vong #can thiệp mạch vành đa mạch
Các biomarker stress oxy hóa trong nước bọt ở bệnh viêm nướu mãn tính và hội chứng động mạch vành cấp tính Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 21 - Trang 2345-2353 - 2016
Nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ biomarker stress oxy hóa (OS) trong nước bọt của bệnh nhân viêm nướu mãn tính (CP) và hội chứng động mạch vành cấp tính (ACS) và thiết lập mối tương quan của chúng với các tham số nha chu và các chỉ số sự kiện tim mạch. Nghiên cứu hiện tại đã tuyển chọn 24 bệnh nhân mắc ACS và CP (nhóm ACSCP), 24 bệnh nhân chỉ mắc ACS (nhóm ACS), 24 bệnh nhân chỉ mắc CP (nhóm CP) và 24 người khỏe mạnh làm chứng. Chỉ số cao răng (PI), chỉ số nướu, chảy máu khi thăm khám, độ sâu túi nha chu (PPD) và mất kết dính lâm sàng đã được ghi nhận. Các chỉ số cho sự kiện tim mạch bao gồm protein phản ứng C nhạy cảm cao (hsCRP) trong huyết thanh và fibrinogen trong huyết tương. 8-Hydroxydeoxyguanosine (8-OHdG), carbonyl protein (PC), malondialdehyde (MDA) và khả năng chống oxy hóa toàn phần (TAOC) được sử dụng như các biomarker OS. Mức độ 8-OHdG, MDA và PC trong nước bọt cao hơn đáng kể ở nhóm ACSCP, ACS và CP so với nhóm chứng khỏe mạnh (p < 0.05). Có mối tương quan đáng kể giữa mức độ PC trong nước bọt với PI hoặc PPD (p < 0.05) cũng như giữa mức độ 8-OHdG trong nước bọt với tất cả các tham số nha chu (p < 0.05). Mức độ TAOC trong nước bọt có tương quan với cả hsCRP huyết thanh và fibrinogen trong huyết tương (p < 0.05). Mức độ MDA trong nước bọt có tương quan với tất cả các tham số nha chu và biomarker cho các sự kiện tim mạch (p < 0.05). Mức độ biomarker OS trong nước bọt cao hơn ở các nhóm bệnh so với nhóm chứng. Chúng cũng tương quan với các tham số nha chu lâm sàng và các chỉ số cho các sự kiện tim mạch ở bệnh nhân ACS, có hoặc không có CP. Các biomarker OS trong nước bọt có thể đóng vai trò như công cụ chẩn đoán cho các bệnh tim mạch và/hoặc bệnh nha chu.
#stress oxy hóa #viêm nướu mãn tính #hội chứng động mạch vành cấp tính #biomarker #nước bọt
GIÁ TRỊ DỰ BÁO BIẾN CỐ TIM MẠCH CHÍNH CỦA THANG ĐIỂM CHA2DS2-VASC Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG VÀNH CẤP CÓ CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Thang điểm CHA2DS2-VASc thường được sử dụng trong tiên lượng nguy cơ đột quỵ do huyết khối ở các bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng thang điểm CHA2DS2-VASc có thể được dùng để phân tầng nguy cơ ở bệnh nhân hội chứng vành cấp. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ biến cố tim mạch chính và giá trị dự báo biến cố tim mạch chính của thang điểm CHA2DS2-VASc ở bệnh nhân hội chứng vành cấp có can thiệp động mạch vành qua da. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chẩn đoán hội chứng vành cấp được chụp và can thiệp động mạch vành qua da tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, có phân tích. Kết quả: Tỷ lệ biến cố tim mạch chính trong thời gian 6 tháng sau can thiệp động mạch vành qua da là 8,3%. Diện tích dưới đường cong ROC của thang điểm CHA2DS2-VASc trong dự báo biến cố tim mạch là 0,825 (p=0,001). Điểm cắt ≥4 có độ nhạy 70% và độ đặc hiệu 80,9%. Phân tích Kaplan-Meier cho thấy nhóm CHA2DS2- VASc ≥4 có tỷ lệ xảy ra biến cố cao hơn nhóm <4 (log-rank test, p<0,001). Kết luận: Thang điểm CHA2DS2-VASc có thể sử dụng để dự báo biến cố tim mạch chính ở bệnh nhân HCVC có can thiệp động mạch vành qua da.
#Hội chứng vành cấp #biến cố tim mạch #CHA2DS2-VASc
Tryptase huyết thanh được phát hiện trong hội chứng vành cấp tính có mối liên hệ đáng kể với sự phát triển của các sự kiện tim mạch bất lợi lớn sau 2 năm Dịch bởi AI
Clinical and Molecular Allergy - Tập 13 - Trang 1-6 - 2015
Một trong những thách thức lớn nhất trong y học tim mạch là xác định các công cụ tốt nhất để thực hiện phân tầng nguy cơ chính xác cho sự tái phát của các sự kiện thiếu máu ở bệnh nhân hội chứng vành cấp tính (ACS). Chúng tôi đã theo dõi 65 bệnh nhân ACS được tham gia một nghiên cứu thí điểm trước đó trong 2 năm sau khi xuất viện, tập trung vào sự xuất hiện của các sự kiện tim mạch bất lợi lớn (MACE). Mối quan hệ giữa mức tryptase huyết thanh khi nhập viện, sự phối hợp giữa can thiệp động mạch vành qua da với stent giải phóng thuốc TAXUS và điểm số phẫu thuật tim (điểm số SX), độ phức tạp tim mạch và MACE trong 2 năm theo dõi đã được phân tích. Dân số ACS được chia thành hai nhóm: bệnh nhân có MACE (n = 23) và bệnh nhân không có MACE (n = 42). Đo tryptase khi nhập viện (T0) và khi xuất viện (T3) và điểm số SX cao hơn ở bệnh nhân có MACE so với những người không có (p = 0.0001, p < 0.0001 và p = 0.006, tương ứng). Ngược lại, chúng tôi không tìm thấy mối liên hệ đáng kể giữa MACE và protein phản ứng C (CRP), và giữa MACE và mức tối đa của troponin nhạy cảm cao (hs-Tn). Trong số tất cả bệnh nhân có MACE, 96% thuộc nhóm có độ phức tạp tim mạch tại thời điểm nhập viện ACS (p < 0.0001). Độ chính xác dự đoán của tryptase huyết thanh đối với MACE trong theo dõi được đặt ở điểm cắt 4.95 ng/ml tại T0 và 5.2 ng/ml tại T3. Thú vị là, bệnh nhân có cả hai giá trị tryptase trên tại T0 và T3 có tỷ lệ tăng 1320% khả năng phát triển MACE (p < 0.0001). Ở bệnh nhân ACS, tryptase huyết thanh đo được trong thời gian nhập viện ban đầu có mối liên hệ đáng kể với sự phát triển của MACE lên đến 2 năm, chứng minh vai trò dự đoán lâu dài có thể của chỉ số sinh học này.
#hội chứng vành cấp tính #tryptase huyết thanh #sự kiện tim mạch bất lợi lớn #phân tầng nguy cơ #bệnh lý tim mạch
Tổng số: 30   
  • 1
  • 2
  • 3